Việc làm đầy đủ
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, khi nguồn nhân lực được sử dụng đầy đủ, tất cả các nguồn lực phi nhân lực khác cũng được tận dụng hiệu quả nhất trong cùng thời kỳ. Sản lượng thực tế của nền kinh tế quốc dân tiến gần hoặc bằng sản lượng tiềm năng, trạng thái sản xuất kinh tế đạt đến giới hạn tối đa của đường giới hạn khả năng sản xuất (production-possibility curve, PPC), và sự phát triển và tăng trưởng kinh tế ở giai đoạn thịnh vượng của chu kỳ kinh tế. Do trạng thái việc làm đầy đủ và tình hình vận hành tổng thể của nền kinh tế phản ánh trạng thái tối ưu mà người dân mong đợi, đạt được việc làm đầy đủ trở thành thách thức cốt lõi lớn của phát triển xã hội. Chính phủ có trách nhiệm và nghĩa vụ hành động mạnh mẽ trong lĩnh vực này, biến việc làm đầy đủ thành yếu tố quan trọng nhất trong cơ cấu chức năng của chính phủ và cũng là mục tiêu hàng đầu của điều tiết vĩ mô ở bất kỳ quốc gia nào.
-
Việc làm đầy đủ là khi tất cả những người sẵn sàng và có khả năng làm việc đều có được một công việc tương đối hài lòng. Ngược lại, thất nghiệp là tình trạng những người sẵn sàng và có khả năng làm việc nhưng không có việc làm. Thất nghiệp xảy ra khi một người bị mất cơ hội việc làm một cách thụ động dù mong muốn có việc. Những người có khả năng làm việc nhưng không muốn làm không được coi là thất nghiệp theo nghĩa chặt chẽ và thường được gọi là "thất nghiệp tự nguyện." Những người nằm ngoài độ tuổi lao động theo quy định (ví dụ: dưới 18 hoặc trên 60 tuổi) cũng không được tính là thất nghiệp.
-
Người lao động trong tình trạng việc làm đầy đủ có thể làm việc hiệu quả, và nguồn nhân lực được phân bổ tối ưu—thường được diễn đạt là "có bao nhiêu việc thì có bấy nhiêu người làm." Nếu công việc của hai người được giao cho ba người, thì được coi là có một người thất nghiệp, hiện tượng mà các chuyên gia kinh tế gọi là "tỷ lệ thất nghiệp ẩn" hoặc "dân số thừa tiềm ẩn."
-
Việc làm đầy đủ không có nghĩa là mọi người đều có việc làm. Ngay cả trong điều kiện việc làm đầy đủ, vẫn tồn tại một tỷ lệ nhất định thất nghiệp cơ cấu và thất nghiệp ma sát—tức là thất nghiệp tạm thời do tiến bộ công nghệ, thay đổi cơ cấu ngành, độ tuổi lao động hoặc sự thay đổi sở thích nhu cầu. Loại thất nghiệp này có tính hợp lý tự nhiên, thuộc về dòng chảy bình thường của lực lượng lao động, là quá trình điều chỉnh động để tối ưu hóa phân bổ nguồn nhân lực, và là yêu cầu của phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội. Việc làm đầy đủ được coi là trạng thái tối ưu của phân bổ nhân lực hiệu quả.
-
Về cả lý thuyết lẫn thực tiễn, việc làm đầy đủ được coi là trạng thái tồn tại tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là tỷ lệ thất nghiệp cân bằng dài hạn hoặc tỷ lệ thất nghiệp trong điều kiện việc làm đầy đủ. Ở giai đoạn này, chu kỳ kinh tế đang ở thời kỳ tăng trưởng hoặc thịnh vượng. Các yếu tố như trợ cấp thất nghiệp, hỗ trợ xã hội, chi tiêu phúc lợi, an sinh xã hội, mức sống, tình trạng tâm lý, quy mô dân số, chất lượng vận hành và sự công nhận xã hội đều được coi là ở trạng thái chấp nhận được.
-
Các quốc gia và thời kỳ khác nhau có tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên khác nhau. Chính phủ các nước có thể căn cứ vào tình hình cụ thể để xác định liệu việc làm đầy đủ đã đạt được trong một giai đoạn nhất định hay không. Lấy Hoa Kỳ—nền kinh tế thị trường hiện đại phát triển nhất—làm ví dụ:
-
Thập niên 1950–60, tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là 3.5–4.5%, tức tỷ lệ lao động có việc làm đạt 95.5–96.5% được coi là việc làm đầy đủ.
-
Thập niên 1970, tỷ lệ này là 4.5–5.5%, tương ứng tỷ lệ việc làm 94.5–95.5%.
-
Thập niên 1980, tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên tăng lên 5.5–6.5%, với tỷ lệ việc làm 93.5–94.5% được xem là việc làm đầy đủ.
-
-
Nếu tỷ lệ thất nghiệp thực tế trong nền kinh tế thị trường hiện đại cao hơn nhiều so với tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, điều này cho thấy nhu cầu hiệu quả không đủ và thị trường trì trệ, chất lượng vận hành kinh tế cần được cải thiện. Tỷ lệ thất nghiệp thực tế gần hoặc bằng 0 là không thể. Trong khi đó, trong các nền kinh tế kế hoạch xã hội chủ nghĩa truyền thống, tỷ lệ thất nghiệp thực tế gần như bằng 0 thực chất là do số người thất nghiệp hoặc dân số thừa khách quan bị che giấu dưới trạng thái "việc làm quá mức phi hiệu quả" dưới dạng "thất nghiệp ẩn" hoặc "dân số thừa tiềm ẩn." Điều này không những không giải quyết được vấn đề thất nghiệp mà còn khiến hiệu quả phát triển kinh tế và xã hội bị tổn thất lâu dài. Tính ưu việt chính trị được lấy làm tiêu chí trong trường hợp này cũng thiếu tính bền vững.